BẢNG BÁO GIÁ THỨC ĂN CHĂN NUÔI, BẢNG GIÁ THỨC ĂN CHĂN NUÔI MỚI NHẤT

-
Hiện nay, giá một số nguyên liệu chính giảm so với bình quân trong tháng Sáu, cụ thể giá ngô hạt 8.600 đồng/kg, giảm 5,5%; khô dầu đậu tương 14.050 đồng/kg, giảm 0,4%; cám gạo chiết ly 5.550 đồng/kg.
*

Theo Cục Chăn nuôi-Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn từ cuối tháng 5/2022, giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi có xu hướng giảm nhẹ.

Bạn đang xem: Bảng báo giá thức ăn chăn nuôi

Dự báo trong thời gian tới, giá một số nguyên liệu chính có thể giảm nhưng không nhiều.

Hiện nay, giá một số nguyên liệu chính giảm so với bình quân trong tháng Sáu, cụ thể giá ngô hạt 8.600 đồng/kg, giảm 5,5%; khô dầu đậu tương 14.050 đồng/kg, giảm 0,4%; cám gạo chiết ly 5.550 đồng/kg, giảm 0,3%; riêng bã ngô vẫn giữ nguyên là 10.500 đồng/kg.

Tuy nhiên, mới đây, giá các loại thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh tăng do một số doanh nghiệp phải sử dụng nguyên liệu thức ăn giá cao nhập trước đó. Cụ thể, thức ăn hỗn hợp cho gà thịt lông màu 13.000 đồng/kg (tăng 0,3%); thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt 13.350 đồng/kg (tăng 1,1%) và thức ăn hỗn hợp cho gà thịt lông trắng 13.800 đồng/kg (tăng 1,4%).

Nhìn lại trong 6 tháng đầu năm 2022, Cục Chăn nuôi cho biết do ảnh hưởng của giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trên thế giới, giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước đều tăng so với cùng kỳ 2021.

Cụ thể, giá trung bình nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như ngô từ 6.617 đồng/kg lên 9.048 đồng/kg; khô đậu tương từ 13.091 đồng/kg lên 14.699 đồng/kg; bã ngô (DDGS) từ 8.848 đồng/kg lên 10.187 đồng/kg...

Do đó, giá thức ăn chăn nuôi trung bình 6 tháng đầu năm cũng tăng khá so 6 tháng đầu năm 2021, như thức ăn hỗn hợp lợn thịt vỗ béo từ 10.746 lên 12.648 đồng/kg; thức ăn hỗn hợp cho gà thịt lông màu từ 10.885 đồng/kg lên 12.497 đồng/kg; thức ăn hỗn hợp cho gà thịt lông trắng từ 11.207 đồng/kg lên 13.193 đồng/kg...

Xem thêm: Top 6 Máy Tính Bảng Giá Rẻ Dưới 2 Triệu Tốt Đáng Mua Nhất Hiện Nay

Đến hết tháng 6/2022, cả nước đã nhập khẩu 8,5 triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi (bao gồm cả thức ăn thủy sản), giá trị tương ứng là 3,7 tỷ USD, giảm khoảng 33,11% về số lượng và 8,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021.

Trong số đó, ngô 3,7 triệu tấn, giảm khoảng 52,3% về số lượng và 14,71% về giá trị; khô dầu các loại 2,2 triệu tấn giảm 39,65% về số lượng và 25,5% về giá trị; DDGS 0,43 triệu tấn, giảm 39,8% về số lượng và 17,3% về giá trị; lúa mỳ 0,73 triệu tấn, giảm 3,7% về số lượng, tăng 24,26% về giá trị.

Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp 6 tháng đạt khoảng 10,5 triệu tấn tương đương so với 6 tháng đầu năm 2021; trong đó thức ăn cho lợn (chiếm khoảng 55% tổng sản lượng) tăng khoảng 13,2%, cho gia cầm (chiếm 40%) giảm khoảng 8,6%, loại khác (chiếm 5%) giảm khoảng 12,5%./.

(Chinhphu.vn) - Theo Sở Giao dịch Hàng hoá Việt Nam (MXV), thị trường nông sản nhìn chung đang duy trì ở vùng giá ổn định trong quý IV, sau một năm đầy biến động trước hàng loạt các biến số từ rủi ro địa chính và biến động về nhu cầu. Tuy nhiên, các áp lực hiện đã giảm bớt, và giá nguyên liệu đầu vào cho ngành thức ăn chăn nuôi đang ở mức tương đối hấp dẫn đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước.


*

Các áp lực hiện đã giảm bớt, và giá nguyên liệu đầu vào cho ngành thức ăn chăn nuôi đang ở mức tương đối hấp dẫn đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước.

Để phục vụ cho nhu cầu tăng trước dịp Tết Nguyên đán 2023, các doanh nghiệp chăn nuôi đang tích cực tái đàn. Do tính chất liên thông trực tiếp với giá thế giới, giá các loại nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tại thị trường Việt Nam nhiều khả năng sẽ vẫn duy trì ở vùng giá ổn định, khó giảm mạnh.

Đây cũng là cơ sở để các doanh nghiệp chăn nuôi và nhà máy nên mua hàng, nhập khẩu và chuẩn bị cho đợt hồi phục của giá nguyên liệu sắp tới.


*

Giá dầu thô WTI đánh mất mốc 80 USD, giảm 3,81% còn 76,93 USD/thùng, giá dầu thô Brent giảm 3,38% còn 82,68 USD/thùng.

Rủi ro vĩ mô kéo giá dầu quay đầu giảm mạnh

Sắc đỏ áp đảo bảng giá năng lượng trong phiên giao dịch đầu tuần. Kết phiên ngày 05/12, giá dầu thô WTI đánh mất mốc 80 USD, giảm 3,81% còn 76,93 USD/thùng, giá dầu thô Brent giảm 3,38% còn 82,68 USD/thùng trước những lo ngại về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể tiếp tục mạnh tay tăng lãi suất.

Tiếp nối số liệu việc làm tích cực của tuần trước, hoạt động của ngành dịch vụ ở Mỹ tăng trưởng vượt mọi kỳ vọng, phản ánh qua chỉ số Quản lý thu mua (PMI) dịch vụ tháng 11 đạt 46,2 điểm, cao hơn so với dự báo là 46,1 điểm. Đáng chú ý, chỉ số PMI phi sản xuất tăng mạnh lên 56,5 điểm, cao hơn mức 54,4 điểm của tháng 10 và cả mức dự báo 53,3 điểm. Các số liệu phản ánh rằng nền kinh tế Mỹ vẫn bền bỉ và vững vàng trước các đợt tăng lãi suất của Fed, bất chấp các lo ngại về một cuộc suy thoái trong thời gian tới.

Tuy nhiên, những tin tức này thách thức khả năng Fed sẽ giảm tốc độ tăng lãi suất từ 75 điểm cơ bản còn 50 điểm cơ bản trong cuộc họp tháng 12, và khiến cho chỉ số Dollar Index bật tăng mạnh mẽ trong phiên lên 105,29 điểm. Điều này đã gây sức ép lên toàn bộ các thị trường tài chính nói chung, và thị trường dầu thô nói riêng. Nhiều nhà đầu tư đã tiến hành đóng các vị thế dầu thô để giảm thiểu rủi ro trong danh mục và biến động của thị trường.

Sức mua cũng hạn chế trong phiên hôm qua khi mà thị trường nhận ra rằng chính sách áp giá trần với dầu thô của Nga vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là khi Trung Quốc và Ấn độ vẫn duy trì mua dầu thô của Nga, nên tác động của giới hạn giá sẽ bị giảm so với kỳ vọng.

Yếu tố cuối cùng làm hạn chế sự phục hồi của giá dầu trong phiên hôm qua là số liệu xuất khẩu dầu của Venezuela. Quốc gia này đã xuất khẩu 619.300 thùng dầu thô và nhiên liệu mỗi ngày, tăng 16% so với tháng 10, nhờ việc nối lại các chuyến hàng đến châu Âu và khởi động lại các nhà máy chế biến dầu.